Mùa thu năm ngoái tôi đã có dịp được về thăm quê gốc của cụ nội thân sinh ra ông tôi ở vùng Tiên Lữ. Khi đó tôi đã được nghe một câu chuyện hết sức ly kỳ mang tính huyền ảo được lưu truyền ròng rã rất nhiều năm tại đây. Câu chuyện được chính miệng bà bác bên họ của tôi kể lại và tôi xin mạn phép dùng lời tường thuật của người trong cuộc để kể lại thêm một lần nữa cho bạn đọc.
…
***
Thời Hậu Lê có nhiều hộ dân từ trên xứ kinh kỳ tản về vùng Tiên Lữ này để tự lập thêm nhiều làng quần cư. Trong đó kể đến có mấy họ như Nguyễn, Trần, Lê, Đinh. Mà chi họ Nguyễn là kể đến đông người nhất…
Chính vì dòng họ Nguyễn đông người nên thành ra là đi đâu cũng gặp người họ Nguyễn. Họ Nguyễn tràn khắp các làng nên một số người trong các họ còn lại cho rằng việc họ Nguyễn đông người quá sẽ dần dần chiếm đất chiếm cát rồi đàn áp các họ khác không cho họ khác sống được trên vùng này. Đấy chỉ là một vài tâm hồn nhỏ mọn của một vài kẻ tự ý cho rằng là thế, chứ đại thể thật tâm đa phần người Tiên Lữ cũng không hề có suy nghĩ ấy.
Tuy thế, trong đám họ Trần, họ Lê, họ Đinh một số kẻ vẫn đố kỵ họp mưu bàn với nhau rằng:
– Nay họ Nguyễn đông như thế, mà không nghĩ cách làm trừ bớt bọn chúng đi thì sau này đất làng không còn chỗ cho họ khác nữa. Đến khi ấy muốn đứng lên chống lại họ Nguyễn thì cũng không còn được nữa rồi. Vậy nên tôi bàn tính cách trừ họ Nguyễn theo hai cách. Một là quây chúng lại giết đi, thứ hai là bỏ độc mà hại chết hết bọn chúng.
– Quây giết chúng thì không được vì suy cho cùng ý kiến của chúng ta cũng chỉ là thiểu số trong họ của mình, chẳng qua là vì chúng ta tự muốn trừ lấy họ Nguyễn để bớt đi cái nguy hại. Nay chúng ta thân cô thế cô nếu mà thẳng thừng ra vây bắt giết bọn người họ Nguyễn thì đâu có được vì bọn chúng đông lắm. Mà bỏ độc thì không khéo lại gậy ông đập lưng ông tự hại chết hết cả người họ nhà mình.
Một gã đàn ông họ Đinh thở dài giãi bày.
Một gã còn lại trong nhóm họ Lê thì chợt đưa ra một cách:
– Quây giết cũng chẳng được mà bỏ độc cũng chẳng xong. Nếu đường dương thế đã không dùng được thì sao ta không nghĩ đến đường âm ti, bỏ ngải độc mà cho bè lũ họ Nguyễn phải chết hết đi?
Kế ấy được đưa ra, tất cả đám người còn lại đều gật gù tán đồng.
Và thế là bọn gã ngay trong đêm ấy đã đi tìm một ông thầy bùa ngải người Mán về để thực hiện nghi thức dùng ngải đen hòng giết những người họ Nguyễn.
Thứ ngải đen ấy được kể là chỉ có ở vùng cao xa với đất đồng bằng mới có, mà tộc người Mán là giỏi về việc dùng thứ ngải này nhất nên việc tìm vị thầy bùa người Mán được tất cả đồng thời lựa chọn.
Ông thầy bùa người Mán này vốn ở vùng núi cao Lạc Thủy cách xa đồng bằng, vì có dịp tiến cống nhà vua ở xứ kinh kỳ nên đận ấy mới qua vùng đất này. Gã họ Lê tìm thấy ông ta trong một quán cư xá ven đường và cũng được nói chuyện với ông ta đôi lần. Có lần, gã ta nghe thấy ông thầy Mán kể vùng Lạc Thủy có thịnh một thứ gọi là ngải đen, chuyên dùng để bảo hộ cho người quý tộc với người có thân phận cao quý khỏi ma rừng. Mà thuật này thì ông ta hiểu biết sâu rộng, lại còn biết lợi dụng thứ ấy hơn mức bình thường để không chỉ bảo vệ bản thân mà còn quay sang giết ngược những kẻ bị ghen ghét.
Khi trong cuộc họp bàn luận của đám người họ Trần, họ Lê, họ Đinh. Gã người họ Lê chợt nhớ đến việc ấy nên nhắc đến… Khi quyết định của cả đám người được tán đồng, ông thầy bùa ngải người Mán được rước về vùng Tiên Lữ để yểm âm trạch, lại chọn mạch tượng của dân nhà họ Nguyễn mà thả bùa phép bỏ xuống.
Làm xong những việc ấy thì cuối cùng cũng đến bước quan trọng nhất là bỏ thứ ngải đen tà độc đem đốt đi chung với áo quần tóc tai có liên quan đến người họ Nguyễn.
Kể từ bấy, dòng họ Nguyễn bị dính phải một thứ bùa ngải khủng khiếp mạt sát dần dần những người trong dòng họ. Cứ qua từng đời, từng đời mỗi khi lại chết thêm một ít. Họ Nguyễn không sao phát triển hưng vượng được. Cho đến thời hiện đại thì ở Tiên Lữ chỉ còn rất ít họ Nguyễn gốc. Mà những người này đã phần ở trên người đều bị dính loại ngải đen tàn độc này nên luôn ốm bệnh mà cuộc sống lại thọ không cao.
…
Ở đầu thôn Đồng Lạc, có ông Nguyễn Cao Cừ cũng là họ Nguyễn gốc sống ở đây từ lâu lắm rồi. Chi họ của ông cũng vì bị ám bỏ giống ngải đen này mà sau cứ bị lụi dần lụi dần đi.
Người họ Nguyễn truyền tai nhau rằng, giống loài Ma ngải đen không chỉ rình bắt hồn người họ Nguyễn, mà nó còn ám cho gia đình người thuộc dòng họ này khó có con, thậm chí là gần như rất hiếm hoi chuyện có con. Để cho dòng họ Nguyễn phải tuyệt tử tuyệt tôn.
Năm năm trước ông Cừ có một người anh trai, vì không tin vào số phận phải chết dưới tay một thứ ngải yểm độc từ thời xa xưa, đã quyết định tự tìm hiểu về cách giải loại ngải này để tự cứu mình và gia đình dòng họ. Nhưng vì thứ ngải được bỏ quả âm độc, liên quan đến âm trạch, long khí của dòng họ. Nên cần phải tìm về nơi chôn cất ban đầu của dòng họ Nguyễn tại vùng đất này. Mà thời gian đã trải qua đến hàng mấy trăm năm rồi, ai còn biết mộ cái người tổ tiên dòng họ Nguyễn ấy ở đâu nữa mà giải. Thành ra ông ta cứ giải bừa, đào bừa. Cuối cùng ngải thì không giải được mà hóa lại còn tự ngược cho mình thành bị ma làng vật chết sớm, còn sớm hơn là kỳ hạn của ma ngải đến đòi mạng.
Nghĩ lại chuyện cái chết của anh trai mình, ông Cừ chỉ nhớ hôm ấy là vào một đêm trời tối đen. Lại là một hôm trời có bão, sét đánh đùng đoàng kêu vang hết cả đồng. Ông Hải cả người ướt sũng nước, trên tay cầm một cái khúc xương người trắng ởn đã bị mục mất một nửa chạy đến tìm ông. Ông ta đưa cho ông khúc xương người rồi dặn dò rằng:
– Nay anh tìm được một phần thi cốt của tổ tiên, nhưng vướng nạn truy sát của người âm nên chắc không thể toàn mạng. Em giữ lấy khúc xương này rồi dựa vào nó mà tìm người có khả năng để tìm nốt chỗ hài cốt còn lại của tổ tiên, giải nốt cái nghiệp ngải ám ảnh dòng họ nhà mình suốt nhiều đời qua để mà giữ lại mạch hương hỏa.
Ông Hải nói xong thì liền lăn ra tắt thở. Cái xác của ông vừa mới chết mà đã chuyển sang tím đen như bị trúng độc, có đem dao ra cứa để thử máu thì máu cũng chỉ đẩy ra những khối rắn như thạch.
Ở trên cổ ông Hải thì có một vết hình bàn tay đen kịt như vừa mới có người bóp cổ ông ta tạo ra. Nhưng rõ ràng là ông Hải chết trước mặt ông Cừ, mà ông Cừ không hề thấy có ai làm việc ấy cả nên chỉ có thể tin rằng việc ông Hải chết là do ma cõi âm làm.
Sau khi ông Hải chết thì lần lượt đến lượt con gái, con trai và vợ ông ta cũng chết theo cách giống y như đúc. Người vợ ông ta thì có cái chết khác biệt hơn so với những người trong nhà, là việc bà ta chỉ bị có vệt bàn tay ở cổ, chứ cả thân người thì vẫn bình thường, máu cũng không đến mức đông lại như thạch.
Người ta chỉ có thể đoán là cả nhà ông Hải bị chết do việc ông động phải mồ mả của người âm nên bị người âm trả thù. Còn những người còn lại là chết cộng thêm cả huyết chú ngải đen dính vào nên máu mới bị đông thành ra như vậy.
Ông Cừ buồn lắm, nhưng không biết làm sao. Nếu nghe theo lời anh đi tìm mộ tổ tiên thì cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Mà nếu không có nghe theo thì cái thời hạn ngải lấy mạng đã sắp đến.
Ông Cừ có một người con trai tên Thành. Thành năm nay vừa tròn mười tám chưa vợ con gì. Ông nghĩ đến thành cũng sớm muộn sẽ phải chịu ứng kiếp của lời nguyền ngải đen thì chỉ buồn bã thất thần.
Thành đang từ vườn sau chạy qua sân, chợt thấy bố cứ rầu rầu ngồi buồn ủ rũ trước nhà mà nhìn vào cái hộp gỗ thì liền hỏi:
– Bố làm sao mà cứ nhìn cái hộp gỗ ấy mãi thế?
Ông Cừ chợt trừng mắt quay ra nhìn Thành quát:
– Mày trẻ con thì hiểu làm sao được chuyện của người lớn. Chú ý vào việc học hành của mày kia kìa, hỏi vớ vẩn linh tinh. Năm nay mà học hành không ra gì, không lấy được cái bằng tốt nghiệp về đây thì đừng có mà trách tao đánh cho què chân.
Thành vẫn chưa biết việc bùa ngải được lưu truyền trong dòng họ của mình vì ông Cừ vẫn cứ giấu giếm anh suốt bao nhiêu năm qua. Nên việc thấy ông nhìn cái hộp gỗ kia anh vẫn thấy kỳ lạ lắm. Cái hộp gỗ ấy từ thời ông Hải bác của Thành chết là ông Cừ cứ lưu giữ nó khư khư như một báu vật. Nay lại đem ra ngắm thì lại khiến Thành càng cảm thấy ngạc nhiên.
Thành mười tám tuổi, sắp tới là kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông để lấy bằng. Xưa nay Thành lại học dốt nên ông Cừ càng lo việc Thành không đỗ tốt nghiệp, lại phải phí công ông nuôi ăn học thêm một năm nữa nên đâm ra quát nạt anh dữ lắm.
Ông Cừ vẫn ngồi thất thần mà nhìn cái hộp gỗ. Thành tuy nghe ông Cừ đe thường xuyên là vậy, mà bản tính anh vẫn không thể sửa đổi được.
Vốn dĩ từ khi sinh ra, không hiểu sao anh lại không kìm lòng được với những thú vui nghịch ngợm sa đà, mà cũng chẳng thể hứng thú được với bất cứ việc gì một cách nghiêm túc, nhất là việc học lại càng không. Nó giống như một thứ ma lực đã tiềm ẩn sẵn trong con người anh vậy.
Chờ cho lúc ông Cừ không để ý, là Thành đã lẻn ngay ra khỏi tấm mắt của ông mà chạy trốn ra ngoài cổng.
Trước lúc ấy, trong lúc ông Cừ đang mắng nhiều anh thậm tệ. Thì anh đã có thể nghe thấy âm ỉ tiếng ám hiệu kêu bằng âm huýt sáo vang chói vào trong của đồng bạn. Tiếng huýt sáo ấy thường vang lên, mỗi khi Đạt, kẻ cầm đầu nhóm bạn chơi bời của Thành nghĩ ra một trò vui mới lạ nào đó.
Thành thoát ra được ngoài cổng, thì đã thấy Đạt ngồi xổm nép sát cái bờ rào. Đang tru miệng huýt sáo chõ qua cái khe của bờ rào để gọi anh.
Thành nghiến răng rón rén đi tới gần Đạt, rồi sút một cú đá rõ mạnh vào mông của Đạt cho bõ ghét. Đạt tức giận bừng bừng, quay ngược đầu lại suýt xoa định chửi đổng thì thấy Thành nên lại thôi. Đạt suýt xoa hỏi Thành với vẻ khó hiểu:
– Ông già mày làm gì mà hôm nay lại mắng mày ghê thế? Mày lại gây ra tội gì lớn lắm hả?
Thành ngán ngẩm đáp:
– Tội lớn gì đâu, tao thấy ông ấy cứ ngồi nhìn cái hộp gỗ đến thất thần nên hỏi. Nào ngờ bị ông ấy nạt cho một trận mà chẳng hiểu tại sao…
Thành nói xong, ngừng một chút lại hất cằm hỏi Đạt nói:
– Thế giờ mày tính ra là đi đâu chưa? Gọi tao ra đây thì chắc là có vụ gì mới lắm hả?
Đạt gật đầu, chém tay như đinh chặt sắt nói:
– Đêm nay tao tính bày trò thử lòng can đảm của tụi mày.
Thành nhếch mép cười hỏi:
– Thử can đảm là thử cái gì? Lần trước cái trò thử can đản của mày mà làm tao liên lụy bị ông già sút cho hai nhát vào mông đây này, giờ vẫn còn đỏ. Đừng có mà bày trò chơi ngu như thế nữa nhé.
Kể đến việc ấy thì phải nói qua, Đạt là thằng đầu sỏ nhất trong đám bạn chơi thân của Thành. Đạt chuyên bày ra mấy trò chơi ngu nghịch dại như nổ pháo nổ trước chốt công an, đốt pháo hoa đêm giao thừa ghẹo ở trụ sở xã. Ngay cả trêu chó cho chó đuổi mà nó cũng nghĩ ra nữa, lớn đầu rồi mà nó vẫn đầu têu ra những trò chơi ngu như lũ trẻ khiến nhiều lúc Thành cảm thấy mệt, nhưng mà vẫn vui.
Chỉ có điều vụ việc của tuần trước Đạt bày ra là Thành cay nhất và vẫn còn nhớ mãi. Đạt bày ra trò sang bên Hoàng Xá trêu ghẹo con gái bên ấy. Cả lũ phóng xe ầm ĩ gào rú ga, rồi gặp mấy đứa con gái làng Hoàng Xá thì tính trêu gẹo lớn lắm. Nào ngờ vì trời tối đen như mực, cả lũ thì nhìn không rõ là con gái già hay trẻ. Đạt lại ghẹo trúng ngay đúng bà Mùi đầu làng. Bà ta nhận ra mặt mũi của tất cả bọn nên hôm ấy về mách bố mẹ từng thằng một để trả đũa.
Cả bọn tức lắm, nếu ghẹo phải gái đẹp thì không sao, nhưng lại vô tình ghẹo phải một bà già rồi để bà ta tìm đến tận nhà thì quả thật là một tình thế ẩm ương.
Bà Mùi còn đến tận nhà Thành, chửi đổng ở ngoài cổng nói:
– Tổ sư cái quân chết bầm chết thây, chúng mày hết trò hết việc rồi à mà đang đêm đi vỗ mông người khác? Chúng mày tưởng bà đây hiền lành nên cứ thế mà định ức hiếp bà à, bà mà tóm được thằng nào trong lũ chúng mày lần nữa thì bà túm cổ lôi lên xã nhốt nửa bữa trong trại đấy con ạ…
Bà Mùi chửi gắt lắm, sau cùng còn chửi sang luôn cả ông Cừ là không biết dạy con nên Thành hôm ấy cũng bị ông Cừ đánh cho một trận. Vụ ấy cho đến nay vẫn làm Thành nhớ mãi. Nên khi Đạt bảo nghĩ ra một trò mới là thử lòng can đảm, giống y như cái câu nói trước khi đi cả bọn chọc phải bà Mùi tối hôm ấy mà Thành nhìn Đạt chỉ muốn đá cho nó thêm vài phát nữa cho bõ ghét.
Thấy Đạt cứ cười khì khì nhìn mình, Thành hơi lười nhác tỏ vẻ cáu kỉnh hỏi:
– Thế thử lòng can đảm của mày là cái gì? Nói ngay đi, nếu mà chủ ý còn ngu hơn cái lần trước thì không chờ bọn kia đánh mày đâu, mà lần này tao sẽ tẩn cho mày một trận lê lết phải bò về nhà đấy nghe chưa.
Đạt nghe thấy vậy thì liền cười khổ nói:
– Tao có lần nào bày trò nghịch ngu đâu, chẳng qua là tụi chúng mình số đen quá hay sao ấy. Mà kể cũng lạ nhé, cứ lần nào đi với mày là y như rằng…
Đạt vừa nói đến đây thì Thành đã liền trừng mắt quát:
– Y như rằng làm sao? Có phải là mày bảo tao đen đủi liên lụy đến cả bọn có đúng không?
Đạt lại cười trừ xua tay nói:
– Không phải thế, tao đâu có ý đấy. Cơ mà đen thật nhé!
Thành làu bàu sốt ruột thúc giục:
– Thế mày có nói không? Hay để tao vào nhà đây?
Đạt cười khúc khích, rồi đi đến gần ghé vào tai Thành nói nhỏ:
– Tao tính hôm nay qua bên Lương Trụ.
Thành hơi ngạc nhiên hỏi:
– Qua đấy làm cái gì?
Đạt lại giơ cao cái bàn tay phải chặt xuống lòng bàn tay trái khẳng định nói:
– Tao nghe bên đấy đồn có cái nhà ma không ai dám vào. Căn nhà ấy mấy năm trước có người treo cổ tự tử ghê lắm, mà người ta còn thường thấy có con ma áo trắng đeo cái dây thừng lủng lẳng cứ hay đi qua lại vào những đêm trăng.
Thành hứng thú vuốt gằm hỏi Đạt:
– Hay lắm, vậy mày tính bày trò gì để thử lòng can đảm tụi tao chưa? Đi vào trong cái nhà ấy từng thằng một để nói chuyện với con ma hả?
Đạt lắc đầu lè lưỡi nói:
– Không phải thế, mày còn nghĩ đến cái ý tưởng bạo hơn cả tao nữa cơ à. Ý tao là chỉ đơn giản thế này, từng thằng xếp hàng lần lượt đơn thân độc mã đi vào trong cái nhà ma ấy, ở một mình trong ấy năm phút rồi quay ra. Thằng nào ở không đủ coi như bị loại, mà nếu như không đủ đô thêm nữa thì thêm luôn cái ý tưởng của mày vào là nói chuyện với con ma cũng được.
Nghe Đạt giảng giải, Thành thấy thích chí lắm và đồng ý ngay. Thành hẹn với Đạt tối đến khoảng bảy giờ là sẽ có mặt ở đường đồng tụ họp với cả bọn.
Sau đó Thành trở vào nấu cơm quét dọn nhà cửa. Thành lo tối ấy ông Cừ canh mình chặt không cho đi nên còn cố lừa ông uống thêm chai rượu đế cho thật chắc chắn, rồi mới nhân lúc ông không để ý mà lẻn ra ngoài.
Đúng bảy giờ tối, Thành có mặt trên con đường đồng chạy qua trụ sở xã Đồng Lạc. Nhóm người của Đạt đã đứng ở đó chờ sẵn gồm Giang, Hưng và Trung. Cả thảy trong đám bạn chơi chung với Thành có bốn người, cả bốn thằng này đều thuộc hạng học dốt nhất lớp và nổi tiếng chơi ngu từ nhỏ.
Vừa thấy Thành xuất hiện, là cả bốn thằng kia đều lên tiếng gọi Thành vào tụ họp. Rồi sau đó Đạt lớn tiếng chỉ huy kế hoạch:
– Bây giờ cả bọn đều đã đến đông đủ rồi, tao xin phổ biến luật chơi. Để cho công bằng và thưởng cho thằng nào gan dạ nhất, thằng xung phong vào cái nhà ấy đầu tiên sẽ phải chỉ ở đó trong vòng bốn phút. Cứ thế, thằng nào vào sau cùng thì sẽ phải ở lâu nhất, tối đa là tám phút.
Nghe Đạt phổ biến, cả lũ đều gật đầu đồng tình. Rồi đồng loạt phóng xe qua xã Lương Trụ.
Ở bên ấy, quả thật có một căn nhà hoang ở sát khu đồng vắng. Khu đồng này từ lâu đã không còn có người canh tác, mà chỉ dùng để là đất chôn người chết. Căn nhà được xây dựng bằng xi măng vững chãi và được lợp mái bằng Fibro xi măng nằm ngay sát mép đường đồng.
Cả nhóm người Đạt và Thành phóng xe máy đi tới trước cửa căn nhà, rồi dừng hẳn xe tắt máy.
Đạt bước xuống xe đầu tiền là đã nhanh nhảu nhận ngay:
– Tao xin phép là thằng gan dạ nhất đầu tiên vào trong trước!
Đạt nói xong chưa chờ bọn kia đồng ý thì đã tự tiện mở cửa xông vào trong. Cả bọn xôn xao nháo nhau:
– Đúng là thằng ranh như thỏ, nó bày ra trò này nên tính trước vào trước để được hưởng lợi tốt nhất đây mà.
Cả đám nhận xét rồi chê bai Đạt là một thẳng khôn lỏi. Đúng bốn phút sau, Đạt hộc tốc chạy ra khỏi căn nhà ấy tỏ vẻ kinh sợ nói:
– Có ma thật chúng mày ạ, tao vừa mới nom thấy cái sợi dây thừng với bóng người lấp ló xong.
Giang và Hưng nghe Đạt tường thuật như thế thì liền xanh mặt. Giang nói:
– Thôi, có khi tao không vào nữa đâu.
Trung thấy vậy thì liền cười gàn Giang:
– Thằng Đạt nói thế mà mày cũng tin à? Xưa nay nó lừa anh em mình đâu có ít. Đây, để tao vào trong cho mày xem…
Nói rồi chẳng chờ cả bọn trả lời, Trung đã chạy như bay vào trong căn nhà hoang ấy.
Lát sau, đúng như khoảng thời gian đã ước hẹn là năm phút. Trung bình tĩnh bước ra khỏi căn nhà với vẻ điềm nhiên như không hề có chuyện gì xảy ra. Giang và Hưng liền chạy đến bên cạnh Trung hỏi han:
– Sao rồi, mày có nhìn thấy con ma không?
Trung nhếch mép cười nói:
– Ma quỷ cái gì, thằng Đạt nó lừa chúng mày chứ làm gì có ma quỷ nào. Tao chỉ nhìn thấy mỗi cái bộ quần áo treo chỗ cửa sổ. Chắc thằng Đạt lúc ra nhìn thấy cái ấy nên lầm tưởng là ma đấy thôi.
Trung nói xong, chưa kịp quay sang giễu cợt Đạt. Thì đã thấy sắc mặt của Đạt tái xanh. Đạt ngã chúi xuống đất kêu lên:
– Ma…
Cả bọn cười ầm hết cả lên, lúc này mới cho rằng là Đạt sợ thật chứ chẳng phải lừa gạt. Nhưng Đạt gào lên chắc nịch nói:
– Tao không đùa chúng mày đâu, vừa rồi thằng Trung mới đi ra, tao thấy con ma nó đứng ở ngay sau cửa nhìn ra ngoài nhìn về phía thằng Trung kia kìa!
Cả lũ nghe đến đây hết nảy đều lạnh sống lưng nổi da gà. Cả bọn đồng loạt quay đầu nhìn vê phía sau lưng, chỗ ngay cái cửa ra vào của căn nhà.
Nhưng bọn họ chẳng nhìn thấy gì cả, Trung không cho là thật và cho rằng Đạt vẫn đang dọa cả bọn, anh nói:
– Chúng mày vẫn tin thằng Đạt à? Nó diễn kịch giỏi lắm, cứ tin tao đi. Thằng nào dám vào mai tao đãi thằng đấy một bát bún, chúng mày có dám chơi không?
Nghe Trung khích lệ như thế, Hưng với Giang cũng bớt hẳn sợ hãi. Chỉ có Thành là từ đầu đến giờ vẫn không hề nói gì, chỉ ôn tồn chăm chú ngắm nhìn căn nhà. Chẳng thèm nghe lũ còn lại hù dọa nhau.
Được Trung bơm thêm tư tưởng nên Giang sau đó đã tiếp tục xung phong xông vào ngay. Và lần này quả nhiên Giang ở trong đó được sáu phút chạy ra thì cũng tỏ vẻ hết sức thản nhiên. Giang nói:
– Đúng như thằng Trung kể mày ạ, chẳng có con ma nào sất. Thằng Đạt lại bịa chuyện để lừa bọn mình đây!
Đạt lắc đầu xua tay định phân bua, rồi lại chợt hãi hùng ngã xuống đất thêm một lần nữa gào lên:
– Ma… ma…
Cả bọn lại đồng loạt quay ngược đầu lại nhìn lần nữa nhưng cũng chẳng thấy gì. Trung liền cợt nhả Đạt:
– Mày có mỗi một cái trò ấy mà cứ diễn đi diễn lại mà không thấy nhàm hay sao hả Đạt?
Đạt nuốt nước bọt quả quyết nói:
– Tao nói thật mà sao tụi mày không tin tao, con ma ấy hệt như lần trước thằng Trung vào. Thì lần này thằng Giang vào xong ra nó cũng đứng ở bệ cửa nhìn ra. Khi chúng mày quay ra thì y như rằng nó lại biến mất…
Trung nhìn Hưng bơm đểu:
– Nếu mày cũng nhát gan như thằng khôn lỏi này thì cứ chịu thua chầu hôm nay đi. Rồi mai tính khao anh em trả nợ…
Hưng nào có chịu nghe theo, anh ưỡn ngực đầy khí thế nói ngay:
– Tao là Hưng chứ không phải thằng Đạt, để tao vào!
Nói xong là Hưng khoan thai bước vào trong hệt oai nghiêm như lúc Trung bước vào vậy.
Được bảy phút sau, quả nhiên là Trung cũng đi bộ ra ngoài và không hề xảy ra chuyện gì. Rồi chỉ nhìn Đạt với ánh mắt khinh thường. Đạt thấy Hưng bước ra, thì lại nhìn về phía căn nhà, nhưng lần này anh không hề tỏ ra sợ hãi gì cả.
Trung thấy vậy liền hỏi:
– Sao thế? Mày không diễn kịch nữa à…
Đạt xua tay nói:
– Lạ nhỉ, lần này thằng Hưng vào sao lại không thấy gì?
Trung cười nói:
– Thì có cái gì đâu mà thấy gì.
Rồi lại quay sang nhìn Thành, vì anh là người cuối cùng trong bọn. Trung nói:
– Nào Thành, giờ đến lượt mày, chơi hay nghỉ?
Thành nhếch mép cười nhạt nói:
– Chúng mày đã thấy xưa nay trò nào có thiếu tao hay chưa?
Nói xong, Thành liền khoan thai bước vào trong căn nhà hoang ấy.
Căn nhà hoang này là một căn nhà xây kiểu cấp bốn, đã rất cũ kĩ và lộ lớp vôi vữa ra lỗ chỗ. Những thanh xà ngang của căn nhà đã bị mối mọt ăn gần hết và có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Qua mùa mưa năm nay, nếu căn nhà này không được tu bổ thì chỉ cần một cơn bão quét qua thôi là khẳng định nó sẽ bị sụp xuống.
Thành vừa bước vào trong nhà thì đã lập tức ngửi thấy một mùi nấm mốc xộc vào mũi anh khiến anh hắt xì hơi một cái.
Đảo mắt nhìn quanh căn nhà, anh thấy đúng như lời Trung nói. Ở cái cửa sổ phía sau căn nhà, quả thật có một bộ quần áo dài được vắt lên treo ở trên ấy. Thành bỏ điện thoại di động ra nhìn đồng hồ rồi bắt đầu chậm rãi bấm giờ chờ đợi.
Thời gian tích tắc trôi qua từng giây, những tiếng động lách tách cứ vang lên đều đều trong căn nhà hoang giữa màn đêm u tịch.
Ở bên ngoài thì đám người Trung, Đạt, Hưng và Giang lại đang cười nhau khúc khích. Đạt chợt đề xuất ra một ý tưởng điên rồ, anh ta nói:
– Thằng Thành bao giờ cũng là thằng chấp nhận chơi sâu nhất hội. Tao hiếm khi nào thấy nó lại bị dọa cho sợ mà bỏ chạy cả. Nếu thực trong căn nhà ấy không có ma thì sẽ chẳng thể nào dọa cho nó sợ. Nên tao tính giờ anh em mình bỏ đi uống nước, chờ ba mươi phút nữa thì quay lại đón nó. Nó mà ra ngoài không thấy anh em mình, lại thấy toàn bia mộ thế này thì kiểu gì cũng hoảng sợ chạy như bay cho mà xem. Đến lúc ấy chúng mày lấy máy ảnh chụp lại để thi thoảng đem ra trêu nó thì vui phải biết!
Giang cũng đồng tình nói theo:
– Phải đấy! Xưa nay tao chưa thấy thằng Thành sợ hãi bao giờ. Lần này phải làm cho nó sợ để nhìn một lần cho biết mới được…
Cả bọn nhất trí tán đồng, rồi cả lũ lặng lẽ dắt xe đi trên đường đồng mà không hề bật máy xe, cốt để cho Thành không thể biết là bọn họ đã rời khỏi đây và bỏ mặc một mình Thành ở lại.
Thành vẫn ngồi trong căn nhà hoang, mà không hề biết Đạt đã bày ra thêm một trò nghịch ngu nữa để hại anh. Anh lẳng lặng nhìn lên xà nhà để quan sát căn nhà cho hết thời gian hẹn. Ngồi trong căn nhà hoang vắng, tuy Thành không sợ ma cho lắm nhưng cũng có cảm giác hơi gai gai người, vì trước đó nghe Đạt dọa dẫm nhiều lần nên tâm lý có chút không ổn định. Tuy vậy, Thành là người luôn tỏ ra trầm tính như nước, và trước nay chưa từng lộ ra vẻ sợ hãi với ai bao giờ. Mặc cho có dọa Thành như thế nào thì trông anh vẫn cứ như một cục đá vậy. Chính vì cái dáng vẻ ấy của Thành mà Đạt vừa rồi mới bày ra một ý tưởng tối dạ đến như thế.
Nhìn thanh xà lan trên nóc nhà một lúc. Bất chợt Thành thấy có điểm khác lạ, mắt anh nhìn trong đêm hơi kèm nhèm nên chỉ thấy ở trên thanh xà lan đang treo lủng lẳng một cái vật nho nhỏ gì đó, như là một sợi dây thì phải.
Thành bật cái đèn pin chiếu sáng ở đầu cái điện thoại, cẩn trọng rọi ánh sáng lên xem xét thật kĩ. Lúc này anh chợt phát hiện ra, hóa ra cái vệt nho nhỏ ấy là một sợi dây thừng, một sợi dây thừng buộc vòng tròn qua cái xà lan rồi vắt vẻo ở trên đấy.
Thành chợt nghĩ đến cái mục đích của sợi dây thừng treo ở đó để làm gì? Anh tự hỏi mình rằng liệu có khi nào đó chính là sợi dây thừng mà người chết thắt cổ tự tử giống như lời Đạt nói? Nghĩ đến đây Thành liền có cảm giác lạnh sống lưng và toát mồ hôi hột. Anh nhìn đồng hồ thì chỉ thấy còn đúng một phút nữa là hết thời hạn thử thách. Nghĩ đến chiến thắng sắp cận kề mà Thành cố kìm nén nỗi sợ hãi và sự suy đoán trong tâm thảm.
Thành tưởng tượng đến cái hình ảnh người treo cổ trên cái xà lan này, khuôn mặt thì tím ngắt, lưỡi thì thè dài ra với hai mắt mở to trợn trừng nhìn xuống. Cái cảm giác ấy cứ như đinh ninh trong đầu Thành khiến cho Thành có cảm giác có thân người nào đó treo cổ ở trên ấy thật.
Đúng một phút sau, thời gian thử thách điểm đã hết. Thành vội vã đứng lên đi ra ngoài. Trước khi đi đến cửa anh còn không quên chỉnh đốn lại quần áo cho thật ngay ngắn, rồi mới bước đi thật khoan thai định bụng để cho lũ bạn của anh không thể chê cười được anh.
Thành đi ra như thế, nhưng khi anh ra đến nơi thì đám người Đạt đâu? Trung đâu? Giang với Hưng đã đi đâu mất rồi?
Ngoài đường đồng trống không không hề có một bóng người. Cả con đường kéo dài hoang vắng âm u chỉ có duy nhất một mình Thành đứng ở giữa. Hai bên đường là những ngôi mộ nhấp nhô xa gần, thi thoảng lại còn có đốm sáng lập lòe ở sau những bia mộ càng làm Thành có chút hoảng hồn.
Thành vừa sợ lại vừa tức liền chửi đổng:
– Mẹ khiếp, bày ra cái trò này chỉ có thằng Đạt chứ không còn thằng nào khác. Kỳ này về mà tao không tẩn cho mày một trận thừa sống thiếu chết thì tao làm con mày!
Nói xong, Thành đang định quay đầu đi, định đi bộ để về. Thì đúng lúc này trong lòng anh bỗng tự nhiên trào lên một cỗ cảm giác rất lạ, một cỗ cảm giác bồn chồn không yên nổi. Theo thói quen, giống như mấy lần trước Đạt kêu lên khi có người ra. Thành lại như có trực giác như mách bảo liền quay đầu lại nhìn về phía cánh cửa ngôi nhà hoang.
Thì trời ơi, lần này không giống như những lần trước. Thành mới biết là hóa ra những lần trước không phải là Đạt bịa đặt, mà quả thật là có bóng người nấp đằng sau cái cửa ngôi nhà hoang đang dõi theo nhìn chằm chằm ra ngoài thật.
Cái thân người ấy mặc bộ đồ màu trắng, chính là cái bộ đồ treo ở gần cửa sổ mà lúc trước Thành nhìn thấy. Người ấy khuôn mặt tím ngắt, cái lưỡi lủng lẳng trên cổ mắc sợi dây thừng. Đôi mắt sáng như sao đang nhìn Thành chằm chằm.
Thành hãi hùng quá, quay đầu bỏ chạy như điên. Mấy lần anh quay lại thì vẫn thấy cái bóng người kia lấp ló ở đằng sau những bia mộ đuổi theo anh.
Mạch máu não của Thành cứ như muốn vỡ tung, hai mắt anh mở to trừng trừng đầy sợ hãi chạy như điên thở dốc. Anh cứ lao bừa về một phía mà chẳng nhìn đường gì cả. Giờ này anh chỉ biết chạy, và chạy làm sao để thoát khỏi cái bóng ma kia là điều tiên quyết.
Tiếng côn trùng kêu loạn xa, ngay gần những ngôi mộ có những con chuột to đùng chạy qua lại vang lên những âm thanh chin chít như báo động.
Ở cái cây Liễu trồng cạnh một bia mộ thì dưới ánh trăng nhá nhem thành cũng có thể nhìn thấy một con chim lợn đang đậu trên một cành cây. Mắt nó sáng như sao nhìn anh rồi kêu lên những tiếng động mang âm hưởng của riêng giống loài nó. Tiếng chim lợn kêu eng éc như muốn gọi hồn khiến Thành sợ như muốn hồn phải lìa khỏi xác vậy.
Thành cứ chạy mãi, chạy mãi rồi ngất đi lúc nào mà không hề hay biết.
Rất lâu sau, khi anh tỉnh lại liền nhìn thấy một khung cảnh tối đen như mực. Anh đang ở trong một căn phòng. Anh nhìn thấy một người đàn bà mặc quần áo bà ba thời ngày xưa, cả người ướt đẫm đang ngồi khóc thu lu trong một góc.
Thành vừa nhìn thấy người đàn bà ấy thì liền cất giọng hỏi:
– Cô là ai? Đây là chỗ nào vậy?
Người đàn bà ngừng khóc, quay mặt ngược trở lại thì ngay tức khắc đã khiến Thành hãi hùng. Anh ngã bật xuống đất định xoay đầu chạy trối chết. Bởi vì khuôn mặt người đàn bà đó chính là một khuôn mặt của ma quỷ, một nửa là một khuôn mặt hoàn toàn bình thường, còn một nửa thì lại lộ ra trơ xương.
Đầu Thành đau như búa bổ, anh gào rú lên như muốn điên loạn. Đúng lúc này, người đàn bà đó liền cất giọng nói với Thành:
– Cậu đừng sợ, tôi không làm hại cậu đâu!
Người đàn bà đó tuy có khuôn mặt hết sức kinh khủng, nhưng giọng nói của người đó lại hết sức êm dịu khiến cho Thành đang vùng vẫy thì cũng nguôi đi phần nào.
Anh gồng hết mình cố lấy can đảm, quay đầu lại run run nhìn người đàn bà đó.
Vẫn là cái khuôn mặt ấy, vẫn cái hốc mắt một bên sâu hoắm lộ trơ xương, vẫn một bên còn thịt da trắng bóc. Cái miệng của người đàn bà ấy nhếch lên khẽ mỉm cười ở một phần bên vẫn còn thịt.
Người đàn bà ấy nói:
– Tôi thấy cậu ngất ở bên ngoài nhà tôi, nên tôi đưa cậu vào đây để chăm sóc cho cậu.
Thành kỳ quái hỏi:
– Nhà ư?
Nhưng anh chỉ nhìn thấy một căn phòng, một căn phòng làm bằng gỗ vuông vắn không hề có cửa ra vào. Căn phòng này lại còn bị lở loét hết tường sập sệ như sắp đổ xuống đến nơi vậy.
Người đàn bà nói:
– Phải, đối với tôi thì nó là nhà, nhưng đối với người như cậu thì có thể gọi nó là một ngôi mộ thì đúng hơn.
Thành kinh sợ, anh giật thót mình khi nghe người đàn bà ấy nói như vậy. Vậy có nghĩa là người đàn bà đó thực sự là ma, và anh đang ở trong chính ngôi nhà ma ấy ư?
Thấy Thành run rẩy khắp người, người đàn bà điềm nhiên nhìn anh cười rồi trấn tĩnh anh:
– Cậu không phải sợ, tôi tuy là ma nhưng không làm hại cậu đâu. Vừa rồi nếu tôi không lôi cậu vào nhà nhanh thì có lẽ cậu mới thật sự bị nguy hiểm.
Thành hỏi:
– Sao lại nguy hiểm?
Người đàn bà hỏi ngược lại:
– Thế trước khi chạy đến đây thì cậu bị thứ gì đó đuổi có phải không?
Thành mở to hai mắt hơi ngạc nhiên hỏi:
– Sao cô biết điều ấy? Phải, tôi gặp một cái bóng người ở cái nhà hoang trên đường đồng.
Người đàn bà cười nhạt trả lời:
– Cậu có biết cái bóng người vừa đuổi theo cậu nó là ai không?
Thành lắc đầu. Người đàn bà thở dài nói:
– Nó chính là con ma thần vòng, nó đuổi theo cậu để muốn ép cậu phải thắt cổ tự tử giống như nó đấy! Con ma ấy nó là oan hồn nên mạnh lắm nên nếu tôi không nhanh tay kéo cậu xuống đây thì chắc là giờ này cậu đã treo lủng lẳng trên cái xà lan của căn nhà đó rồi.
Thành nghe đến đấy thì sắc mặt liền xám như tro không biết nói gì hơn. Người đàn bà lại nói tiếp:
– Nó sẽ không buông tha cho cậu đâu, một khi nó đã xác định mục tiêu rồi thì người đó chỉ có đường chết.
Thành kêu lên:
– Chết ư, tôi không muốn chết! Cứu tôi…
Người đàn bà lại cười, giảng giải cho Thành:
– Cậu đừng sợ, tôi có cách để cứu lấy cậu, chỉ cần cậu nghe theo lời tôi là được!
Thành hỏi:
– Cách gì?
Người đàn bà ấy lắc đầu nói:
– Tạm thời chưa phải lúc, tôi sẽ nói cho cậu sau. Tôi còn muốn nói cho cậu biết cách giải thứ bùa ngải mà dòng họ cậu dính phải kia. Giờ thì bạn của cậu ở trên kia đang tìm cậu, cậu phải về nhanh đi thôi. Cậu cứ về nhà đi rồi tôi sẽ tự khắc đến tìm cậu.
Người đàn bà ấy nói xong thì mắt Thành chợt hoa lên một chặp. Anh ngất lịm đi không biết gì nữa, đến một lúc sau khi tỉnh lại thì đang phát hiện mình nằm trên một bãi đất trống, bên cạnh một cây trứng cá nhỏ. Một giọng nói vang văng vẳng như tiếng gió thì thào vào tai Thành: “Cậu phải nhớ kĩ đêm mai, người thứ hai đến tìm cậu là tôi, đến lúc ấy thì hẵng trả lời, nhớ kĩ…”
Giọng nói ấy vừa mới biến mất, thì lập tức Thành nghe thấy tiếng gọi hô hoán của đám người Đạt:
– Thành ơi…
Tiếng động vang xa xa ở khu đường đồng, nơi Thành đang đứng thì khuất sâu vào trong những khu mộ trùng trùng ở đồng hoang. Thành hì hục chạy về phía phát ra tiếng gọi của Đạt, anh hét to:
– Tao ở đây!
Tiếng Thành vang rõ mồn một nên chẳng lâu sau thì đám người của Đạt cũng tìm được Thành. Thành vì sợ mất mặt nên vẫn giả bộ thản nhiên đi từ từ lắm. Đám người của Đạt nhìn thấy Thành mà lại thấy anh chẳng tỏ vẻ hoảng sợ chút nào giống như bọn họ dự đoán thì thất vọng lắm. Trung nói:
– Thằng Thành đúng là cục đá thật rồi, thật là chẳng có cái gì có thể dọa được nó cả.
Giang cũng gật gù tán đồng:
– Đúng vậy, thằng này chắc thần kinh nó làm bằng thép chứ chẳng phải làm từ máu thịt nữa rồi.
Đạt hiếu kỳ hỏi Thành:
– Mà mày tự nhiên chui vào lẫn trong đám bia mộ này làm cái gì vậy? Không sợ ma nó bắt hồn mất à?
Thành điềm nhiên trả lời:
– Sợ cái gì, vừa nãy tao nhìn thấy con đom đóm đẹp quá nên đuổi theo bắt. Nào ngờ là đám lửa ma trơi, đúng là chán thật.
Nghe Thành nhắc đến lửa ma trơi mà cứ tỉnh bơ như không, cả đám đều lắc đầu lẽ lưỡi. Không ai bảo ai cũng tự nhắc mình trong lòng là có lẽ từ giờ chẳng bao giờ dọa Thành nữa, vì có dọa thì Thành cũng chẳng sợ, gan nó to bằng trời rồi.
Nhưng bọn họ nào có biết, ngoài miệng lúc này thì Thành mạnh bạo thế thôi, chứ trong thâm tâm thì Thành đang nóng ruột như lửa đốt.
Thành lại quay sang hỏi Đạt:
– Vậy chứ bây giờ trò chơi xong rồi, ai là người thắng cuộc đây?
Cả đám bốn mắt nhìn nhau, tất cả đều đã vào trong căn nhà đó, nếu như vậy mà nói thì cuộc chơi này là hòa. Đạt không cam nguyện với kết quả như vậy liền đề xuất:
– Thằng nào dám vào nói chuyện với con ma ấy thì thằng ấy thắng?
Cả đám nhìn nhau, đều đồng loạt lắc đầu không đồng ý với ý kiến của Đạt. Trung nói:
– Thôi muộn rồi, vào đấy biết bao giờ mới gặp được ma, mà chắc gì đã có. Giờ này ông già tao ở nhà chắc đang xới tung cái đất làng mình để tìm tao rồi. Tao phải về ngay nếu không thì ngày mai kẻo nhừ đòn với ông ấy mất.
Nghe thấy Trung nói thế, Hưng với Giang cũng đồng loạt đòi vịn cớ này mà đòi về. Còn Thành thì vừa mới gặp ma thật xong nên cũng chẳng có lòng dạ nào dám quay lại chỗ ấy. Mà Đạt thì có vẻ như trước đó cũng nhìn thấy con ma thật nên cũng ngầm đồng ý không nói gì.
Cuối cùng cả bọn tiu nghỉu lên xe đi về, trong cuộc vui hôm nay bày ra không có kẻ nào chiến thắng. Nhưng mỗi người mỗi vẻ, đều có những tâm lý suy tính ngùn ngụt khác nhau. Đặc biệt là Thành, anh cực kỳ ám ảnh bởi những lời nhắc nhở của người phụ nữ kia, cô ta nói là lời nguyền của dòng họ của anh ư? Nó là thứ gì mà từ trước đến nay tại sao Thành chưa từng nghe thấy bao giờ?
Về đến cổng nhà, đèn điện trong nhà đã tắt. Thành rón rén mở cổng rồi chui tọt vào trong nhà. Nhưng vừa vào đến nơi thì anh đã thấy mẹ anh chạy tới túm lấy cổ tay anh ra hiệu khẽ khàng suỵt nhẹ vào tai anh nói nhỏ:
– Trời ơi sao mày vẫn dám bỏ đi chơi thế hả Thành? Mày vào buồng nhanh lên không kẻo bố mày thấy bố mày đánh cho què chân bây giờ. Học hành thì không lo mà cứ suốt ngày lo trốn đi chơi.
Bà Đỉnh mẹ Thành cứ hối con chạy vô buồng thật nhanh rồi cố dõi mắt canh trừng ông Cừ vì sợ không may giữa chừng ông tỉnh lại thì nửa đêm lại to tiếng với Thành.
Thành cũng sợ thật nên nghe lời mẹ không dám cãi lại, chui tọt vào buồng mà mặt xanh nanh vàng. Rồi từ bấy nhảy lên giường trùm chăn kín mít mà nhắm mắt đi ngủ luôn. Thành vẫn tưởng tượng đến những phút giây hãi hùng lúc trước mà không sao xua tan được những hình ảnh ấy. Nó cứ quanh quẩn trong đầu anh về người phụ nữ có nửa khuôn mặt lộ trơ xương, về con ma thần vòng trong ngôi nhà hoang giữa đồng vắng.
Thành cứ miên man suy nghĩ mà thiu thiu ngủ lúc nào không hay biết.
Trong nhà, ông Cừ vẫn đang ngủ.
Đến nửa đêm ông Cừ khát nước liền nhổm dậy. Ông ngáp ngắn ngáp dài liếc dọc liếc ngang rồi chạy vô buồng trong xem đêm qua Thành đã về chưa. Chạy vào tới nơi thì ông thấy Thành đã đang ngủ say, bèn thở dài rồi quay đầu trở ra.
Ông Cừ ra đến đầu hè, ngồi xuống cái ghế gỗ rồi châm điếu thuốc lào hút liền đến mấy hơi. Sau đó mới nhấp vài ngụm nước trà vẫn còn pha từ trước. Ông ngồi đấy một lúc nghỉ ngơi, rồi mới định bụng quay lại vào trong ngủ tiếp. Nhưng ông vừa mới định quay đầu, thì liền thấy có một cái bóng trắng cứ thấp thoáng lượn lờ chỗ ngoài cửa cổng.
Ông Cừ nheo mày, định thần nhìn lại một lúc, thì vẫn là cái bóng trắng ấy. Xa quá nên ông cũng chẳng nhìn rõ mặt mũi, mà cũng chẳng biết là nó mặc bộ đồ trông rõ ràng như thế nào. Chỉ là một cái bóng trắng mờ mịt mà thôi.
Ông Cừ nhìn mãi không đoán ra được liền đánh tiếng nói:
– Ai đấy? Ai mà cứ đi qua đi lại vào nửa đêm ở cổng nhà tôi thế hả?
Cái bóng người bên ngoài cửa cổng không trả lời, chỉ lặng yên đứng lại, nó đứng ở xa xa dõi theo đôi con mắt chăm chú nhìn ông không rời. Ông Cừ tính ra quát nạt một trận để đuổi nó đi thì không ngờ, cái bóng trắng ấy lại đi xuyên qua cái cửa sắt tiến dần về phía ông. Ông Đồng mặt mày kinh hãi thất sắc kêu lên một tiếng “Ôi!” Rồi ngã vật xuống đất.
Bà Đỉnh đang nằm trong buồng, chợt nghe thấy tiếng thất thanh la lên của ông Cừ thì liền tỉnh lại. Bà vội vàng gạt tấm chăn qua một bên rồi hốt hoảng chạy ra với chồng.
Ông Cừ ngã xuống đất thì vừa lúc cái bóng trắng kia cũng biến mất, mà bà Đỉnh cũng chạy đến gần ông rồi đỡ ông đứng dậy hỏi han:
– Ông làm sao thế? Sao đang ngủ mà lại thức dậy lúc nửa đêm thế này, còn không bật cái đèn điện lên để ngã mới khổ chứ lại.
Ông Cừ xua tay nói:
– Tôi khát nước nên mới dậy để uống một ngụm, nào ngờ khi tôi vừa mới ngồi ở đây được một lúc thì…
Ông Cừ lắp bắp run run tay chỉ ra phía cổng nói:
– Thì tôi nhìn thấy một cái bóng trắng bà ạ. Mới đầu thì tôi thấy nó cứ lượn lờ qua lại ở cái cổng ngoài vườn nhà mình, tôi hỏi nó là ai thì nó không nói. Đến lúc tôi định ra quát cho nó một trận để đuổi nó đi thì nào ngờ cả cái thân người trắng muốt của nó xuyên qua cái cửa lao về… về phía tôi.
Nghe ông Cừ vừa nói vừa run lại chỉ tay về phía cổng như vậy thì bà Đỉnh cũng dõi mắt nhìn theo cánh tay của ông. Nhưng bà chẳng thấy ai ở ngoài đấy cả, ngoại trừ mấy cái dây leo chằng chịt vẫn bám ở cánh cổng sắt như thường ngày.
Bà vuốt vuốt ngực ông Cừ rồi trấn an ông:
– Làm gì có con ma nào ngoài ấy, khéo ông đang ngủ lại nửa tỉnh nửa mơ nên mới tưởng tượng ra đây thôi. Thôi đi vào nhà ngủ đi, ở ngoài này khéo lúc nữa lại cảm lạnh thì chỉ khổ cái thân tôi thôi.
Bà Đỉnh lên tiếng thúc giục. Ông Cừ cố nén sợ hãi, cũng phải nuốt nước bọt lật đật đi vào trong buồng, ông trèo lên chiếc giường gỗ nằm xuống mà mắt cứ mở to thao láo không sao ngủ nổi. Ông cứ suy nghĩ đến cái hình ảnh vừa rồi mà ông nhìn thấy, cái bóng trắng xuất hiện lướt qua cái cổng sắt lập lòe.
Bà Đỉnh chui vào buồng rồi nằm xuống cạnh ông, được một lúc bà vẫn cứ thấy ông chằn chọc mãi thì liền hỏi:
– Ông vẫn cứ nghĩ đến chuyện ấy hả? Già rồi nhìn gà hóa quốc chứ ma quỷ gì?
Ông Cừ phân trần:
– Mấy hôm nay tôi ngồi tôi cứ suy nghĩ, nghĩ đến cái chết của ông Hải mà tôi không sao yên được bà ạ.
Bà Đỉnh hỏi:
– Ông nghĩ cái gì?
Ông Cừ trả lời:
– Tôi có một chuyện này vẫn luôn giấu bà, giấu con nhưng chắc nay mai tôi phải nói ra cho hai người biết thôi. Chứ cứ để thế này tôi cũng thấy bứt dứt lắm. Cái bóng người lúc này khéo lại là ông Hải anh trai tôi về tìm tôi chứ chẳng phải ai khác…
Bà Đỉnh không cho là đúng, bà xua tay nói:
– Ông cứ nói linh tinh với vẩn cái gì thế! Công an người ta đã có kết luận rõ ràng rồi mà lại. Cái chết của ông Hải là do trúng gió mà chết, vì ông ấy đi trời mưa chứ ma quỷ cái gì.
Ông Cừ cãi lại ngay:
– Thế bà giải thích cho tôi tại sao cả vợ, cả con nhà bác ấy đều chết hết sau khi bác ấy chết?
Bà Đỉnh cũng định đôi co với chồng cho bằng được, nhưng chợt nghĩ lại trong vấn đề này đúng là có điểm kỳ lạ thật.
Bà cứ lắp bắp cãi ngang chống chế:
– Thì… thì cũng rất có thể là do cả nhà bác ấy hôm ấy cùng trúng gió nên mới chết hết!
Ông Cừ liền nạt ngay:
– Nói vớ va vớ vẩn, nói như thế mà cũng nói được!
Xong rồi ông Cừ quay đầu nằm nghiêng sang một bên, nghĩ lại chuyện hồi nãy mà cũng chẳng thèm phân bua gì thêm với bà Đỉnh thêm nhiều.
Sáng hôm sau, ông Cừ thức dậy từ rất sớm, cho gà ăn rồi băm bèo cho lợn. Thành vừa mới dậy thì cũng phải đến trường ngay nên không có ở nhà.
Đến sẩm tối, cả nhà lại quây quần lại quanh mâm cơm. Khi này ông Cừ mới trịnh trọng nói:
– Lát nữa ăn cơm xong, thằng Thành không cần phải học hành gì cả. Ngồi ở trên này để tao nói chuyện. Cả bà nữa, cũng đừng có đi đâu.
Ông Cừ căn dặn một câu như thế thì không còn nói gì nữa, mà cứ im lặng ăn xong cho hết bữa cơm.
Đúng bảy giờ tối, cả ba người mới lại một lần nữa tụ họp ngồi quanh chiếc bàn uống nước ở gian khách. Ông Cừ chợt bê cái hộp gỗ mà thường này ông hay cất giữ như báu vật đặt xuống bàn.
Thành thấy lạ lắm, lạ vì thường ngày ông Cừ cứ giữ cái hộp ấy khư khư không cho ai xem. Vậy mà hôm nay ông lại chủ động cầm nó xuống đây thì hẳn phải có chuyện gì quan trọng lắm thì mới khiến ông làm như vậy.
Bà Đỉnh cứ bồn chồn suốt ruột không yên cứ nhấp nha nhấp nhổm mãi. Cả hai mẹ con cứ chăm chú nhìn ông Cừ mà không biết ông định làm cái gì.
Ông Cừ ngồi chết lặng hồi lâu, một lát sau mới cất giọng trầm trầm phá tan bầu không khí căng thẳng, ông nói:
– Thường ngày mọi người cứ thầy tôi giấu giếm không cho ai xem cái hộp này nên chắc hiếu kỳ lắm có phải không? Vậy chứ cả hai người có biết bên trong cái hộp này có chứa thứ gì hay không?
Bà Đỉnh nóng lòng nói ngay:
– Thì ông có cho ai xem bao giờ đâu mà biết được!
Thành cũng gật đầu hưởng ứng. Khi này anh cũng có cảm giác tò mò và nóng ruột y như bà Đỉnh, chỉ chờ ông Cừ giải thích. Ông Cừ thở dài một chặp rồi đáp lại:
– Tôi nói thật với hai người, trong này chẳng phải là thứ báu vật liên quan đến tiền bạc gì như hai người nghĩ. Mà nó chỉ là một khúc xương.
– Một khúc xương ư?
Thành tự động buột miệng hỏi như vậy. Ông Cừ cũng không chờ lâu mà liền giải đáp ngay:
– Câu chuyện này để lời truyền kỳ mấy đời nay trong dòng họ nhà tôi rồi. Ngày xưa thì truyền khắp làng người nào cũng biết, nhưng đến thời hiện đại rồi thì lắm người xứ khác đến. Thành ra cái việc ấy nó cứ nhạt dần rồi người làng quên hẳn. Đến bây giờ thì ngoài những người trực hệ chính thống của dòng họ mới biết còn ngoài ra thì không ai rõ ràng chuyện này hết.
Ông Cừ nói xong lại trịnh trọng mở chiếc hộp gỗ, cầm cái xương người trắng ởn đã bị đục khoét hết một nửa đặt xuống bàn cho cả hai mẹ con của Thành nhìn rõ rồi nói tiếp:
– Đây là khúc xương của tổ tiên dòng họ Nguyễn nhà mình. Bác Hải cũng vì chuyện này mà chết. Là vì dòng họ nhà mình có dính một cái lời nguyền âm độc của ngải, lời nguyền ngải đen.
Bà Đỉnh với Thành nghe đến đây thì cứ há hốc mồm miệng hết cả ra không tin nổi. Ông Cừ vẫn tiếp lời:
– Lời nguyền ngải đen này cực kỳ tàn ác. Là vì ngày xưa họ Nguyễn mình ở cái làng này đến sớm nhất nên đông lắm, đông quá nên sau có kẻ ghen ghét muốn trừ bớt người họ nhà mình. Nên bày trò hạ ngải đen để cho ma ngải đen đuổi cùng giết tận dần dần hết những người trong họ. Người họ nhà mình vì dính cái lời nguyền ngải đen này nên chẳng ai sống thọ, ai cũng có kỳ hạn phải chết. Người sớm thì mới hai mươi đã phải lìa đời, còn người may mắn muộn hơn một chút cũng chẳng ngoài sáu mươi. Bác Hải cũng vì kỳ hạn đã cận kề nên mới làm liều, cố liều mình đi đào mả tìm xương cốt tổ tiên để giải lời nguyền ngải đen này. Mà vô tình chọc phải ma làng, dẫn đến việc nó vật chết cả nhà ông ấy, rồi ma ngải đen cũng ứng chú ngay.
Bà Đỉnh trước nay không hề tin chuyện ma quỷ, nên nghe thấy chống nói việc ấy thì thất thần lâu lắm. Thành cũng vì việc này mà kinh ngạc không sao có thể tin nổi.
Một lát sau ông Cừ lại nói tiếp:
– Hôm qua tôi thấy cái bóng trắng lấp ló ở ngoài cổng thì tôi biết chắc là bác Hải về tìm tôi để nhắc tôi là kỳ hạn của tôi cũng sắp đến rồi, chắc là muốn dặn tôi nhanh nhanh lo việc này trước khi xuống mồ. Nên hôm nay tôi mới họp mặt hai người kể ra chuyện này, để khi tôi chết thì mọi người cũng rõ tường tận việc mà mình đang gặp phải.
Ông Cừ nói xong thì lại cất cái khúc xương người đã mục quá nửa bỏ vào trong hộp gỗ, rồi căn dặn Thành:
– Nay bố chỉ có mỗi mình mày là con trai, cũng là người duy trì hương hỏa cuối cùng của dòng họ Nguyễn nhà mình. Nên chỉ căn dặn mày là từ sau khi bố chết, cố gắng tu chí mà làm ăn rồi lấy vợ sơm sớm đi. Còn về việc giải lời nguyền ngải đen mà bác cả mày nói làm được thì làm, không làm được thì cũng đừng có cố quá kẻo lại chết ngược vì lũ ma làng. Chuyện đến đâu thì đến, mệnh người có số có kiếp rồi con ạ.
Ông Cừ căn dặn xong thì liền cầm cái hộp gỗ đặt lại vị trí cũ, rồi quay đầu lau nước mắt đi thẳng vào trong buồng mà không quay ra nữa.
Bà Đỉnh với Thành cứ ngồi thất thần ở ghế thật lâu, lát sau mới tỉnh táo được mà đứng dậy.
Thành hôm nay chẳng có tâm trí nào mà bỏ đi chơi. Một việc là vì cái hình ảnh người đàn bà trong huyệt mộ cứ ám ảnh anh làm anh không sao chú ý sang việc khác được. Một việc là vì chuyện ông Cừ vừa nhắc đến cũng khiến anh hoảng sợ không sao kể xiết. Vì thế cho nên mặc dù hôm nay ngoài bờ rào, thằng Đạt đã huýt sáo mấy lần để gọi anh ra bàn bạc mà anh không có ra.
Nửa khuya đêm hôm ấy. Ông Cừ đột nhiên thức dậy, đi ra bên ngoài ngồi xuống cái ghế ở sân, cầm điếu thuốc lào lại hút vài hơi rồi ngồi yên vị ở đó như chờ đợi một điều gì.
Bà Đỉnh đang nằm ở giường, không thấy ông Cừ đâu thì cũng liền nhổm dậy. Bà chạy ra ngoài sân thì thấy ông Cừ đang ngồi ở cái ghế giữa sân. Mắt ông Cừ cứ chăm chăm nhìn ra cánh cổng ngoài vườn như đang chờ một ai đó. Bà Đỉnh đến gần chồng rồi chợt ân cần hỏi:
– Sao khuya rồi mà ông không ngủ, còn chạy ra ngoài này làm gì thế?
Ông Cừ thở dài nói:
– Tôi đang chờ, chờ bác cả về dặn dò tôi.
Bà Đỉnh cũng lắc đầu thở dài không nói gì, bà quay đầu bước vào trong nhà. Bà lại lượn qua chỗ buồng của Thành xem Thành đã ngủ chưa hay vẫn còn thức khuya để nghịch điện thoại.
Cái buồng của Thành nằm ở góc nhà bên trái, ngược với buồng của ông bà là ở góc nhà bên phải. Trong cái buồng ấy chỉ có duy nhất một cái cửa sổ hướng ra vườn sau nhà.
Bà Đỉnh vừa ló mặt vào, định nom xem con đã ngủ hay chưa thì chớp mắt bà liền lập tức kinh hãi. Vì tự lúc nào ngoài cái cửa sổ chỗ buồng của Thành, ngay gần chỗ Thành đang nằm. Có một cái bóng trắng nhởn đang đứng lù lù ở đấy. Mặt mũi nó tím ngắt, cái lưỡi đỏ lòm thò dài ra với sợi dây mắc trên cổ, đang mở to hai mắt trợn tròn nhìn chằm chằm Thành ngủ.
Bà Đỉnh hoảng sợ quá liền ngã bật xuống đất kêu la thất thanh. Ông Cừ đang ngồi ngoài sân nghe thấy tiếng vợ kêu thì liền chạy vào ngay, tới nơi thì ông thấy mặt mày của bà Đỉnh đã xám như tro, bà túm lấy cánh tay của ông rồi thều thào nói:
– Trời ơi ông ơi, vừa rồi tôi nhìn thấy con ma thắt cổ. Nó đứng ở ngay ngoài cửa sổ buồng thằng Thành ông ạ, nó cứ nhìn thằng Thành chằm chằm mà không nói gì cũng không làm gì. Cái lưỡi nó thè dài ra đỏ lòm. Tôi hãi quá mới ngã gục xuống đất kêu lên, khi ngoảnh ra thì đã không thấy nó đâu nữa.
Ông Cừ đỡ bà Đỉnh đứng dậy, rồi mới chạy đến gần cái cửa sổ mà khép ngay cái cửa lại giúp Thành. Rồi mới chạy ra hỏi bà Đỉnh tiếp:
– Thế nó vóc người như thế nào? Mặc bộ quần áo ra sao?
Bà Đỉnh nói:
– Nó cao chừng tôi thôi, hình như cũng là đàn bà con gái thì phải. Nó mặc bộ đồ màu trắng, tóc dài mà đen lánh. Cái miệng thì thò ra cái lưỡi đỏ lòm dài lắm ông ơi.
Ông Cừ nghe đến đây, liền mường tượng đến cái cảnh tượng mà đêm hôm qua chính mắt ông đã nhìn thấy. Thì cái vóc người áo trắng lập lò mà ông đã thấy cũng hệt như những gì mà bà Đỉnh vừa kể. Vậy thì cái hồn ma ấy nào đâu phải là của ông Hải anh trai ông, mà nó là một cái hồn khác. Cái hồn của một con ma thần vòng đến tìm con trai ông. Nó đã bắt đầu đến đây từ hôm qua, nhưng đến hôm nay mới tiếp cận gần Thành.
Ông Cừ cũng run lẩy bẩy hết cả chân tay, ông chẳng dám ngồi ở ngoài sân nữa mà chỉ nhanh nhanh chóng chóng hối bà Đỉnh:
– Bà nhanh ra đóng hết cửa nẻo lại, rồi thắp mấy nén hương khấn vái các cụ nhanh lên. Kỳ này là con ma thần vòng nó ám thằng con trai nhà mình rồi chứ chẳng phải đùa. Bà thắp hương lên khấn các cụ để các cụ về bảo vệ nó thì may ra mới kịp.
Bà Đỉnh nghe ông Cừ hối như thế thì liền vội vã đi làm ngay. Khi bà vừa kịp đóng cánh cửa nhà chính là thì ở phía ngoài cổng, lần này lại xuất hiện thêm một cái bóng trắng nữa đang lướt tới. Bà hãi hùng quá không dám nghĩ nhiều, mà chạy ngay đến ban thờ thắp hương. Vừa khấn vái vừa mếu máo khóc gạt nước mắt liên tục.
Ông Cừ cứ thất thần ngồi ngay ở cái bệ cửa, chẳng dám đi đâu cũng không sao ngủ nổi.
Còn đối với Thành, thì anh đang chìm trong mộng cảnh nên không biết những việc bên ngoài. Anh chỉ mơ thấy đầu tiên là có người đứng ở ngoài cửa gọi anh mở cửa cho nó vào. Anh đang ngồi trong nhà mà cái tiếng người ấy cứ lục khục âm ỉ mãi. Trong giấc mơ ấy anh liền nhớ lại lời nhắc của cái hồn ma dưới huyệt mộ nói: “Cậu phải nhớ kĩ đêm mai, người thứ hai đến tìm cậu là tôi, đến lúc ấy thì hẵng trả lời, nhớ kĩ…”
Nên Thành ghi nhớ việc ấy rõ lắm nên người kia có gọi thế nào thì anh cũng không mở cửa. Đợi một lúc sau rồi thì cái người ấy cũng đột nhiên biến mất mà không gọi cửa nữa. Đến lượt thứ hai, thì có một giọng nói khác nghe rất quen vang lên:
– Cậu Thành, mở cửa cho tôi đi…
Nghe đến đây, Thành liền chạy ra mở cửa ngay. Lần này thì thành thấy đó chính là người phụ nữ dưới huyệt mộ, chỉ có điều hôm nay cô ta đến gặp Thành thì với gương mặt hoàn chỉnh không lộ ra cả xương như lúc trước nên trông rất xinh đẹp. Cô ta nói:
– May mà cậu nghe lời tôi đấy nhé, vừa rồi con ma thần vòng nó đến tìm cậu. Nếu cậu mà mở cửa ra là chết với nó ngay. Đây là trong mộng nên chỉ có cậu mới quyết định được việc cho nó vào hay không. Đáng nhẽ nó không định đi ngay đâu. Nhưng giờ bên ngoài bố mẹ cậu đang thắp hương khấn vái hương hồn tổ tiên của cậu về phù hộ nên nó không dám ở lại, vậy nên tôi mới vào đây được với cậu.
Thành hỏi:
– Vậy chứ cô không sợ hồn ma tổ tiên tôi cũng đuổi bắt cô hay sao?
Người phụ nữ lắc đầu nói:
– Tôi không sợ, vì tính ra là tôi đến để giúp chứ không phải để hại. Hồn ma tổ tiên cậu biết rõ việc ấy nên không cản tôi, mà chỉ đuổi con ma thần vòng đi thôi.
Nói xong, là cô ta lại ngồi xuống cái ghế trong nhà. Trong giấc mộng này thì chỉ có Thành với cô ta. Cô ta nói:
– Có hai việc mà cậu cần phải làm ngay. Thứ nhất là để thoát khỏi con ma thần vòng thì cậu phải quay trở lại căn nhà hoang đó vào ban ngày, đem cái thanh xà lan mà nó treo cổ đốt đi thì giải được. Thứ hai là về lời nguyền ngải đen, muốn giải thì cậu phải lấy hết xương cốt của tổ tiên cậu không thiếu khúc nào, cho vào một cái hũ nước rồi đào một cái hố sâu chừng sáu mét, đặt cái hũ đó xuống đấy đổ thật đầy nước. Lại tìm xương cốt của những kẻ đã từng hạ chú ngải, đem đốt đi ra tro rồi đổ vào hòa cùng cái nước ở trong bộ xương cốt ấy. Thì lời nguyền ma ngải đen sẽ được giải.
Thành hỏi:
– Nhưng làm sao tôi làm được việc thứ hai. Tôi không biết xương cốt của tổ tiên tôi được chôn ở đâu. Mà của những kẻ đã hạ lời nguyền ngải đen thì lại càng khó.
Cô gái nói:
– Những kẻ hạ lời nguyền ngải đen ấy có tổng cộng thuộc ba dòng họ Trần, Lê, Đinh gồm bảy kẻ. Cậu cứ đến khu mộ chôn dành riêng cho từng dòng họ rồi khi ấy tôi sẽ hiện ra chỉ cho cậu. Tạm thời trước hết muốn tránh ma ngải đen đến tìm, thì bảo bố của cậu dời hết chỗ xương cốt của nhà ông bác cậu chôn sang chỗ khác, đừng chôn trong nghĩa trang của họ mình nữa. Có như vậy thì con ma ngải đen sẽ mất một thời gian dài mới tìm được bố cậu. Trong thời gian ấy thì làm những việc kia mới có thể an toàn.
Thành nghe cô gái nói xong thì liền gật đầu cảm ơn cô gái một hồi, rồi lại hiếu kỳ hỏi:
– Nhưng sao cô lại cứu giúp gia đình chúng tôi thế?
Cô gái trả lời:
– Tôi với cậu tính ra là có nghiệt duyên từ kiếp trước, tôi nợ cậu một phần nhân tình. Vả lại bây giờ tôi cũng muốn nhờ cậu di dời mộ phần cho tôi, vì mộ tôi sắp sập rồi. Đến khi ấy thì tôi ở dưới âm khổ lắm. Cậu cứ nhớ kĩ mộ tôi không khó tìm, nó là cái bãi đất bằng phẳng hôm rồi cậu ngất ở ngay cạnh cái cây trứng cá. Nhớ kĩ đấy…
Cô gái nói xong thì liền quay đầu đi ra khỏi cửa biến mất, Thành cũng giật mình choàng tỉnh lại.
Khi tỉnh lại anh thấy ông Cừ đang ngồi thất thần ở bệ cửa, liền đánh tiếng gọi ông:
– Bố ơi, con có cách giải lời nguyền ngải đen của dòng họ nhà mình rồi!
Ông Cừ đang ủ rũ thì chợt lại nghe tiếng Thành gọi cũng không khỏi giật mình. Lại nghe anh nhắc đến việc giải lời nguyền ngải đen thì vừa buồn vừa ngạc nhiên hỏi:
– Việc ấy bác cả con cũng đã từng làm rồi mà cũng có được đâu. Thôi con chớ có dại mà tự động làm liều. Nhưng sao tự dưng con lại nhắc đến việc ấy?
Thành đáp:
– Vừa rồi trong mơ có người về chỉ cho con cách giải ngải đen. Dặn là trước hết bố phải cải táng mộ bác cả để cầm chân vài bữa, rồi còn phải đào một cái hũ sâu sáu mét rồi cho xương cốt tổ tiên mình vào đấy, lại đốt xương cốt của những kẻ đã hạ ngải ra cho hòa với nước. Rồi đem cái hố ấy lấp lại là xong.
Ông Cừ thở dài nói:
– Cách làm ấy thì chắc có lẽ đúng là để giải ngải rồi đấy, nhưng cái khó là làm sao mà tìm được xương cốt?
Thành cười nói:
– Việc ấy thì bố không cần phải lo, người ấy đã chỉ cho con cách giải nên bố chỉ cần nghe theo là được.
Thành kể lại tường tận những gì mà hồn ma người phụ nữ trong huyệt mộ đã nói. Hôm sau ông Cừ nghe theo lời anh nên cũng hành động ngay, lần lượt cải táng hết mồ mả của người nhà ông Hải. Lại cùng anh đến căn nhà hoang hôm trước đem thanh xà lan của căn nhà ấy tháo xuống đốt đi. Rồi đến cái bãi đất trống như lời Thành nói. Đào xuống sâu độ khoảng ba mét thì liền gặp ngay một lớp gỗ mục. Trong ấy có một bộ xương cốt mặc một bộ quần áo bà ba vẫn còn nguyên.
Thành đem bộ xương cốt ấy thay vào cái tiểu khác rồi lại cải táng chôn đi. Đêm ấy người phụ nữ kia về tìm Thành báo mộng đã cảm ơn Thành rỗi rít, lại còn dặn anh thật kĩ càng là cái hũ phải được chôn ở hướng chính nam. Còn mộ huyệt của người trong nhà này sau khi chết đi thì không được chôn ở nghĩa trang dòng họ nữa mà phải chuyển sang chôn hết ở hướng đất chính bắc trong làng.
Thành răm rắp làm theo và không dám trái lời. Kể từ hôm anh và ông Cừ đốt cháy cái xà lan gỗ ở căn nhà hoang kia, thì con ma thần vòng cũng không quay về tìm anh nữa.
Mà Thành nghe theo lời người phụ nữ ấy chỉ hàng đêm. Thì cũng lần lượt tìm được xương cốt của bảy kẻ kia. Chỉ có điều là xương cốt không được vẹn toàn, vì tính ra cũng đã mấy trăm năm. Nên cũng đã tan gần hết chỉ còn vài mảnh xương vụn. Thành đem xương cốt của những kẻ ấy thiêu ra tro. Rồi theo lời hồn ma huyệt mộ đem tro cốt ấy hòa với nước trong hũ. Lại thu thập đủ xương cốt của tổ tiên bỏ vào.
Làm xong những việc ấy, thì Thành liền nghe ông Cừ nói:
– Bố cảm thấy cả người nhẹ nhàng lắm con ạ, cứ như là vừa được giải thoát khỏi thứ gì đó mà đã bị áp bức bao nhiêu lâu nay không sao thoát nổi.
Còn Thành thì từ bấy cũng đột nhiên thay đổi hẳn tính cách. Anh chăm chỉ học hành rồi còn tu chí làm ăn. Ông Cừ thì sống thọ đến tám mươi tuổi mới chết. Thành thì buôn bán rộng khắp vùng nên giàu có lắm.
Câu chuyện truyền kỳ về lời nguyền ma ngải đen như thế đã chấm dứt. Sau đận ấy, người phụ nữ dưới huyệt mộ cũng có về tìm Thành một vài lần nữa để cảm ơn, cũng đồng thời để báo cho anh biết là cô sắp đi đầu thai kiếp khác vì sớm được siêu thoát nhờ Thành. Cô nói kiếp sau cô sẽ đầu thai thành con gái của Thành để trả nốt phần nợ nhân tình. Từ đó cô ta cũng không bao giờ xuất hiện trong giấc mơ của Thành nữa.
…
Câu chuyện tôi kể trên đây được thuật lại theo lời người bác gái bên họ của tôi. Mà chính người này lại là mẹ vợ của cậu Thành nên sự việc được kể rất tường tận. Mọi chi tiết trong chuyện có thể thêm bớt một chút nhưng không hề khác biệt nhiều lắm.
Ngạ Quỷ